Thứ năm 19/12/2024 16:19

Xây dựng thương hiệu nông sản: Cần lực đẩy từ chính sách

Dù thu về hàng chục tỷ USD từ xuất khẩu nhưng nông sản Việt vẫn chưa có đầu ra ổn định, giá trị chưa cao. Một trong các "điểm nghẽn" đó là chưa có thương hiệu.
Xây dựng thương hiệu, đưa nông sản Việt tiến xa hơn OCOP Hòa Bình: Xây dựng thương hiệu nông sản địa phương bền vững

Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản ước đạt mức cao kỷ lục 62,4 tỷ USD, tăng 18,5% so với năm 2023, xuất siêu tiếp tục đạt mức kỷ lục mới 18,6 tỷ USD, tăng 53,1%. Tuy nhiên, sản phẩm nông sản vẫn chưa có đầu ra ổn định, giá trị chưa cao mà một trong các "điểm nghẽn" là do chất lượng không ổn định và chưa có thương hiệu.

nhiều sản phẩm nông sản sau khi có nhãn hiệu được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ lại chưa được khai thác sử dụng, chưa phát huy được giá trị để phát triển thành thương hiệu
Nhiều sản phẩm nông sản sau khi có nhãn hiệu được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ lại chưa được khai thác sử dụng, chưa phát huy được giá trị để phát triển thành thương hiệu

Bên cạnh đó, các văn bản chỉ đạo, chính sách pháp luật hiện hành về xây dựng và phát triển thương hiệu hiện nay vẫn chung chung, phân tán, chưa phù hợp với đặc thù của sản phẩm nông nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, khó ổn định chất lượng. Vì vậy, cần bổ sung văn bản quy phạm pháp luật phù hợp cho xây dựng và phát triển nhãn hiệu, thương hiệu nông sản Việt Nam, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia.

Thêm vào đó, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, qua kinh nghiệm triển khai trong thực tiễn, đánh giá chính sách pháp luật còn tồn tại, vướng mắc về việc đăng ký cho nông sản chủ lực quốc gia có gắn tên định danh "Việt Nam" khi cấp quyền sở hữu trí tuệ. Trên thực tế, nhiều sản phẩm nông sản sau khi có nhãn hiệu được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ lại chưa được khai thác sử dụng, chưa phát huy được giá trị để phát triển thành thương hiệu.

Hiện nay, nhiều quốc gia có nền nông nghiệp phát triển trên thế giới đã xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu nông sản quốc gia như: Australia, Chile, Pháp, Peru, Hà Lan, Thái Lan, Colombia,... Có thể kể đến các nhãn hiệu, thương hiệu nông sản quốc gia thành công như: Thái Lan với sản phẩm gạo, lụa...; Colombia với Cà phê, hoa quả của Chi Lê (Fruit of Chile); Thương hiệu nông sản của Australia (Australian made, Australian Seafood)... đã góp phần định vị sản phẩm của các quốc gia này trên thị trường quốc tế, thể hiện được ưu thế về chất lượng, uy tín và những giá trị về văn hóa của các quốc gia đó được thể hiện trên sản phẩm; sức cạnh tranh và bảo vệ tài sản trí tuệ trên thị trường quốc tế trong bối cảnh hội nhập; nâng cao trách nhiệm và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nông sản trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Từ thực tế trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã nghiên cứu xây dựng trình Chính phủ ban hành "Nghị định về xây dựng và phát triển nhãn hiệu, thương hiệu nông sản Việt Nam.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc nghiên cứu trình Chính phủ ban hành "Nghị định về xây dựng và phát triển nhãn hiệu, thương hiệu nông sản Việt Nam" là chủ trương đúng đắn và rất cần thiết, hoàn thiện cơ chế chính sách, quản lý nhà nước nhằm nâng cao giá trị gia tăng, quảng bá và phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam cả trong nước và quốc tế.

Để xây dựng "Nghị định về xây dựng và phát triển nhãn hiệu, thương hiệu nông sản Việt Nam", Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất 4 chính sách bao gồm: Chính sách hỗ trợ chuẩn hóa quy trình sản xuất, chế biến, bảo quản; Chính sách hỗ trợ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, thương hiệu nông sản ở trong và ngoài nước; Chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực cho các chủ sở hữu, đơn vị tổ chức quản lý sử dụng nhãn hiệu, thương hiệu nông sản; Chính sách hỗ trợ các chương trình truyền thông, quảng bá, phát triển thị trường.

Trong đó, chính sách hỗ trợ chuẩn hóa quy trình sản xuất, chế biến, bảo quản nhằm mục tiêu quản lý chặt chẽ chất lượng quy trình sản xuất, chế biến, bao gói, bảo quản...; tổ chức, đầu tư sản xuất quy mô lớn, sản lượng lớn, phát triển vùng nguyên liệu, ổn định; chứng nhận chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn, yêu cầu của thị trường; giúp người tiêu dùng an tâm khi sử dụng, đảm bảo sản phẩm an toàn và cam kết truy xuất được nguồn gốc, xuất xứ.

Nội dung của chính sách là quy định chính sách hỗ trợ về tín dụng và đầu tư, nghiên cứu khoa học công nghệ, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn, xây dựng mô hình mẫu cho các tổ chức, cá nhân trong toàn bộ quy trình sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm đạt nhãn hiệu, thương hiệu nông sản Việt Nam, vùng, miền, địa phương.

Để thực hiện chính sách này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ nghiên cứu, xây dựng, đưa tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật về chất lượng đối với sản phẩm nông sản được chứng nhận nhãn hiệu, thương hiệu Việt Nam, vùng miền, địa phương; bổ sung sản xuất sản phẩm nông sản đạt nhãn hiệu nông sản Việt Nam; vùng miền là lĩnh vực được ưu tiên đối với các chính sách khuyến khích đầu tư nông nghiệp và nông thôn đã ban hành (kinh phí khoa học, khuyến nông; tín dụng, đất đai; các chính sách khác liên quan).

Đồng thời, bổ sung chính sách riêng, đặc thù cho đối tượng hợp tác xã, tổ hợp tác, hiệp hội, trang trại, hộ gia đình: Quy định hỗ trợ 100% xây dựng mô hình sản xuất tập trung theo quy mô lớn (giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y được phép sử dụng).

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, lý do lựa chọn chính sách này do hiện nay, Việt Nam chưa xây dựng được nhiều nhãn hiệu, thương hiệu đủ mạnh cho các mặt hàng nông sản, một trong các vấn đề đặt ra là: Chưa chuẩn hóa qui trình sản xuất, chế biến, bao gói, vận chuyển, bảo quản, bày bán đặc thù làm cơ sở định hình và duy trì lâu dài phẩm cấp xác định của sản phẩm theo các tiêu chí nhận diện thương hiệu; chưa có vùng sản xuất tập trung để có nguồn nguyên liệu đủ lớn và ổn định về chất lượng gắn với mã số vùng nuôi trồng, truy xuất nguồn gốc làm cơ sở cung ứng hàng hóa thường xuyên, ổn định về khối lượng, chất lượng cho người tiêu dùng.

Tin khác

Phiên bản di động