Thương hiệu quốc gia: Bệ phóng giúp doanh nghiệp Việt vươn ra thế giới Lượng doanh nghiệp có sản phẩm đạt thương hiệu quốc gia Việt Nam tăng mạnh |
Theo đó, ngay từ ngày mới thành lập, TH đã ứng dụng những công nghệ hàng đầu thế giới trong nông nghiệp, chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa; sử dụng hệ thống phần mềm quản trị tiên tiến thế giới như: Quy trình chăn nuôi, quản lý chuồng trại đến từ Israel hay những phần mềm phối trộn thức ăn từ Italia, phần mềm quản lý thú y từ New Zealand, quy trình sản xuất nước tinh khiết, xử lý nước thải nghiêm ngặt từ Nhật Bản… TH đã đầu tư hệ thống năng lượng mặt trời trên các mái chuồng trại chăn nuôi bò sữa nhằm vừa sản xuất ra năng lượng xanh và giúp đàn bò giảm hấp thu nhiệt khi mùa hè đến.
Trong chuỗi sản xuất tuần hoàn tại TH, sản phẩm phụ và rác thải của quy trình này luôn trở thành nguyên liệu đầu vào tại một quy trình khác. Ở đó vòng đời của vật liệu được duy trì lâu nhất có thể trước khi thải ra môi trường, từ đó phát thải được giảm thiểu. TH cũng thực hiện trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất đối với việc kiểm soát tác động tới môi trường.
Công ty CP Thực phẩm sữa TH nói riêng, Tập đoàn TH nói chung tích cực ứng dụng công nghệ số, công nghệ xanh vào sản xuất, kinh doanh. Ảnh: DN |
TH đã ứng dụng mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn nhằm hướng đến mục tiêu phát triển bền vững xuyên suốt tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trải qua hàng chục năm đạt “Thương hiệu quốc gia Việt Nam” cho nhiều nhóm sản phẩm, cũng như các thương hiệu quốc gia khác, thương hiệu TH hội tụ ba yếu tố: sức mạnh thương hiệu, tư duy đổi mới sáng tạo và tiên phong.
Chia sẻ sâu hơn về chuyển đổi kép tại TH, ông Ngô Minh Hải, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn TH cho hay: Ở Tập đoàn TH, công nghệ số và mô hình kinh tế tuần hoàn – kinh tế xanh đã được thực hiện ngay từ khi xây dựng doanh nghiệp, và là hai tiến trình có sự kết nối chặt chẽ với nhau. Chính công nghệ số và công nghệ cao ngay từ đầu đã góp phần làm cho kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững ở TH được thực hiện một cách hiệu quả và mạnh mẽ hơn.
“Công nghệ số được ứng dụng ở TH từ 12-15 năm trước, như: Hệ thống Chip AfiTag TM đeo ở chân bò để theo dõi sức khỏe, sản lượng sữa; các phần mềm phục vụ lập khẩu phần, phối trộn chế biến và cung cấp thức ăn cho bò sữa hoàn toàn tự động bằng vi tính hóa 100%Ứng dụng các công nghệ hàng đầu thế giới để quản lý về giống và di truyền cho bò sữa, triển khai công nghệ thụ tinh ống nghiệm (IVF) cho bò sữa…”, ông Hải ví dụ.
Đến nay TH vẫn tiếp tục cập nhật các công nghệ mới nhằm tối ưu hóa năng suất, chất lượng sản phẩm, tối ưu hóa hiệu suất làm việc và tăng hiệu quả hợp tác, sẵn sàng thay đổi để đáp ứng các yêu cầu mới của thị trường.
Chiến lược chuyển đổi số của TH được xây dựng dựa trên 4 cấu phần chính: Tăng cường chăm sóc khách hàng, tối ưu quy trình nghiệp vụ, nâng cao hiệu suất công việc và chất lượng sản phẩm. Chiến lược được cụ thể hóa bằng thiết kế tổng thể và lộ trình triển khai từng cấu phần phù hợp với các ưu tiên về quản trị và nguồn lực của Tập đoàn. Trong quá trình thực hiện TH luôn đi cùng các đối tác về công nghệ và dịch vụ hàng đầu thế giới kết hợp với đội ngũ chuyên gia nội bộ của Tập đoàn.
Về chuyển đổi xanh, mô hình kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn ở TH được thực hiện với các hành động như: Xây dựng hệ thống xử lý chất thải với những công nghệ và thiết bị hiện đại hàng đầu thế giới; mỗi cụm trang trại có Nhà máy xử lý nước thải riêng, công suất từ 1.200 đến 2.500 m3/ngày đêm; từ năm 2020 bắt đầu lắp pin năng lượng mặt trời sản xuất khoảng 8 triệu kWh/năm, tương đương giảm 5.000-6.000 tấn CO2 phát thải…
“Tại TH, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh không phải là một áp lực mà là một cơ hội. Ngay từ những ngày đầu thành lập, triết lý phát triển bền vững và cam kết bảo vệ môi trường đã luôn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của chúng tôi. Việc áp dụng các công nghệ số và mô hình kinh tế xanh – tuần hoàn giúp chúng tôi không chỉ bảo vệ môi trường mà còn tối ưu hóa chi phí sản xuất, tạo ra các sản phẩm có giá trị cao hơn và tăng cường lòng tin của người tiêu dùng”, lãnh đạo TH cho hay.
Ông Hải cũng đồng thời cho biết, Chính phủ đã ban hành “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030", “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050” và “Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030” với những mục tiêu cụ thể. Tuy nhiên, đến nay thách thức lớn nhất là tư duy chuyển đổi số song hành chuyển đổi xanh mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức và bước đầu thực hiện.
Vì vậy, cần có những chính sách cụ thể hơn từ chính phủ để khuyến khích và thúc đẩy các doanh nghiệp chuyển đổi từ mô hình sản xuất truyền thống sang mô hình ứng dụng công nghệ số và các mô hình xanh, tuần hoàn. Điều này không chỉ bao gồm các chính sách hỗ trợ tài chính mà còn yêu cầu việc thiết lập các tiêu chuẩn về kỹ thuật, quy trình sản xuất cũng như cung cấp nguồn lực cần thiết để doanh nghiệp có thể vận hành hiệu quả hơn trong mô hình này.