Thương hiệu Quốc gia

Thứ tư 02/04/2025 10:13

Việt Nam và bài toán thương hiệu quốc gia cho ngành Halal

Việt Nam dù mới bắt đầu phát triển ngành Halal, tuy nhiên để phát triển bền vững nhiều chuyên gia khuyến cáo nên xây dựng thương hiệu quốc gia cho ngành này.

Tiềm năng lớn nhưng khởi đầu còn khiêm tốn

Theo PGS.TS. Đinh Công Hoàng - Viện Nghiên cứu Nam Á, Tây Á và châu Phi, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, năm 2024 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Halal của Việt Nam sang Trung Đông đạt gần 700 triệu USD, tập trung chủ yếu vào các mặt hàng nông sản, thủy sản và thực phẩm chế biến. Tuy nhiên, chỉ khoảng 0,2% doanh nghiệp Việt Nam hiện có sản phẩm đạt chứng nhận Halal, tập trung ở TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai và chủ yếu là doanh nghiệp lớn như Masan Consumer, Vĩnh Hoàn, Minh Phú.

Thị trường Halal dự kiến đạt quy mô 10.000 tỷ USD năm 2028. Ảnh minh hoạ

Thị trường Halal dự kiến đạt quy mô 10.000 tỷ USD năm 2028. Ảnh minh hoạ

Không khó để nhận ra, Việt Nam có thế mạnh nông nghiệp, có ngành chế biến thực phẩm phát triển nhưng chưa tạo ra được một dấu ấn thương hiệu Halal rõ nét. Sản phẩm Halal Việt Nam trên thị trường chủ yếu là nguyên liệu thô hoặc thực phẩm sơ chế, giá trị gia tăng thấp, thiếu vắng sản phẩm chế biến sâu như mỹ phẩm, dược phẩm, thực phẩm chức năng. Đây cũng là nhóm hàng có sức tiêu thụ mạnh và biên lợi nhuận cao trên thị trường Halal toàn cầu.

Thị trường Halal toàn cầu hiện được ước tính đạt quy mô hơn 7.000 tỷ USD (năm 2024), dự kiến cán mốc 10.000 tỷ USD vào năm 2028 với tốc độ tăng trưởng 6 - 8%/năm. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa có tên trong nhóm 20 - 30 quốc gia xuất khẩu sản phẩm Halal tiêu biểu, dù là nước xuất khẩu thực phẩm nằm trong top 20 thế giới.

Nguyên nhân thì có nhiều nhưng, theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, Bộ Công Thương, một phần là do Việt Nam chưa có thương hiệu sản phẩm Halal được nhận diện, thậm chí là chưa có thương hiệu Halal. Hoạt động xúc tiến, quảng bá hình ảnh sản phẩm Halal Việt Nam ra thế giới vẫn rời rạc, tự phát, thiếu một câu chuyện định vị thương hiệu mang bản sắc riêng. Hệ sinh thái hỗ trợ cho Halal cũng mới chỉ đang hình thành, còn nhiều điểm nghẽn trong hạ tầng logistics, giết mổ đạt chuẩn, kiểm nghiệm và đặc biệt là thiếu sự công nhận quốc tế cho chứng nhận nội địa.

Trên thực tế, ngành Halal tại Việt Nam mới phát triển manh mún, việc xây dựng được một thương hiệu sản phẩm Halal có độ nhận diện cao là khó. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, xây dựng thương hiệu luôn là vấn đề dài hạn và cần được thực hiện sớm, thậm chí song hành cùng nhịp phát triển của ngành.

Nhìn sang các quốc gia có ngành Halal phát triển như Malaysia, Indonesia, Thái Lan, UAE có thể thấy, những quốc gia này đã xây dựng thương hiệu Halal từ rất sớm và có tầm ảnh hưởng quốc tế. Các tổ chức chứng nhận như JAKIM (Malaysia), BPJPH (Indonesia) hay MoIAT (UAE) không đơn thuần là cơ quan kiểm định, mà là một phần của hệ sinh thái Halal, giúp sản phẩm nước họ được tin tưởng tại các thị trường khó tính.

Chính sách phát triển thương hiệu Halal ở các nước này luôn gắn liền với truyền thông văn hóa, quảng bá hình ảnh quốc gia, các chiến lược “ngoại giao Halal” mạnh mẽ và hệ thống logistics, sản xuất bài bản.

Chiến lược cần thiết cho Việt Nam

Việt Nam đã có bước đi đầu tiên đáng ghi nhận với việc Thủ tướng phê duyệt Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030” và thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia (HALCERT). Tuy nhiên, theo đại diện Viên Nghiên cứu Chiến lược chính sách Công Thương, xây dựng thương hiệu Halal Việt Nam cần một chiến lược toàn diện hơn, trong đó bao gồm 4 trụ cột.

Việt Nam chưa có thương hiệu Halal có độ nhận diện cao trên thị trường. Ảnh: Chinhphu

Việt Nam chưa có thương hiệu Halal có độ nhận diện cao trên thị trường. Ảnh: Chinhphu

Thứ nhất, định vị thương hiệu quốc gia Halal Việt Nam phải dựa trên những giá trị bản sắc riêng: Sạch - minh bạch - trách nhiệm - hài hòa tự nhiên. Điều này phù hợp với định nghĩa mở rộng của Halal khi không chỉ là tuân thủ nghi lễ Hồi giáo, mà còn là sản phẩm đạo đức, an toàn và bền vững.

Thứ hai, truyền thông thương hiệu Halal Việt Nam ra quốc tế cần mang tính nhất quán, kết nối giữa các cơ quan Nhà nước - doanh nghiệp - hiệp hội - tổ chức xúc tiến thương mại. Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng “Bộ nhận diện thương hiệu quốc gia sản phẩm Halal”, có logo, khẩu hiệu, tiêu chí cụ thể đi kèm hệ thống truy xuất minh bạch.

Thứ ba, cần sớm ban hành một nghị định chuyên ngành về quản lý sản phẩm và dịch vụ Halal, xác lập cơ chế đầu mối quản lý Nhà nước, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn hài hòa với chuẩn quốc tế từ đó nâng cao tính pháp lý và độ tin cậy cho sản phẩm.

Thứ tư, thúc đẩy đầu tư công - tư vào cụm công nghiệp Halal, khu chế xuất Halal chuyên biệt tại các địa phương có lợi thế như Tây Nguyên, ven biển miền Trung. Song song, xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ nhân sự, từ quản lý đến kỹ thuật, marketing và kiểm định tiêu chuẩn Halal.

Thị trường Halal nhiều tiềm năng, bản thân Việt Nam được nhận định có năng lực lớn trong sản xuất và cung ứng sản phẩm Halal. Nhưng với tiêu chuẩn cao, mang tính văn hoá, tín ngưỡng thị trường Halal không dễ thâm nhập.

Để có chỗ đứng trên thị trường này, Việt Nam không thể chỉ dừng lại ở việc đáp ứng tiêu chuẩn mà cần chủ động dẫn dắt hình ảnh, giá trị, bản sắc của sản phẩm Halal gắn với thương hiệu quốc gia. Đây không chỉ là việc của doanh nghiệp, mà cần một chiến lược quốc gia được triển khai đồng bộ từ hoạch định chính sách đến truyền thông thương hiệu và hỗ trợ hệ sinh thái.

Trong thế giới mà đạo đức ngày càng trở thành một tiêu chí tiêu dùng toàn cầu, Halal chính là một hướng đi mới nơi Việt Nam có thể vừa khẳng định, vừa lan tỏa giá trị “Made in Vietnam” theo cách bền vững nhất.

Việt Nam dù mới bước đi trên con đường phát triển ngành Halal và việc bắt tay sớm trong xây dựng thương hiệu, thậm chí thương hiệu quốc gia cho sản phẩm Halal là lực đẩy quan trọng cho ngành này phát triển mạnh và bền vững.

 

Tin khác