Từ những câu chuyện thành công
Chia sẻ về hành trình FPT ra thế giới, ông Trương Gia Bình, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn FPT cho biết, ngày 3/9/1988, ngày đầu tiên thành lập công ty, tầm nhìn của FPT được viết rằng: FPT mong muốn trở thành một tổ chức kiểu mới, giàu mạnh, bằng nỗ lực trong khoa học kỹ thuật, góp phần hưng thịnh quốc gia.
![]() |
Ông Trương Gia Bình, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn FPT |
Sau 10 năm, chúng tôi quyết định đi ra nước ngoài. Thấy Ấn Độ thành công, chúng tôi mở tại Bangalore (Ấn Độ) nhưng không có một hợp đồng nào cả. Chúng tôi lại nghĩ phải đến thung lũng Silicon (Mỹ) và mở ở đó nhưng cũng không có một hợp đồng nào cả.
"Vào lúc tiền đã hết, rất nhiều người thất vọng, nhưng chúng tôi vẫn nghĩ rằng ý chí mở rộng bờ cõi trí tuệ của đất nước là không thể tắt được. Rất may, có ánh sáng cuối đường hầm khi ông Ishida - tập đoàn Sumitomo đã đem FPT sang giới thiệu cho các tập đoàn hàng đầu ở Nhật Bản" - ông Trương Gia Bình nhớ lại.
Cũng ở đây chúng tôi đã phát hiện ra một điều rất quan trọng, có ý nghĩa đến tận ngày hôm nay: Không một quốc gia nào có các kỹ sư công nghệ thông tin sẵn sàng học tiếng bản địa. Họ chủ yếu nói tiếng Anh.
Sau đó, FPT đã thành lập một trường đại học để dạy các kỹ sư công nghệ thông tin về tiếng Nhật. Ngày hôm nay, đấy là sức mạnh của Việt Nam tại Nhật Bản. "Hầu hết công ty làm phần mềm nước ngoài tại Nhật Bản là các công ty Việt Nam. Chúng ta đã có một hiệp hội phần mềm của Việt Nam tại Nhật Bản" - ông Bình cho hay.
Ông Trương Gia Bình chia sẻ thêm, không dừng ở tiếng Nhật, chúng tôi mở sang tiếng Hàn. Tăng trưởng phần mềm tại thị trường Hàn Quốc có những năm lên đến 85%. Bên cạnh đó, mở thêm tiếng Trung để tiếp cận thêm các công ty Đài Loan vì ngành bán dẫn người ta nói tiếng Trung. Rồi chúng tôi học tiếng Đức, Pháp và các tiếng khác nữa. Đó là điều đặc biệt của Việt Nam.
Gần đây còn 2 điều kiện nữa để đảm bảo ngành phần mềm Việt Nam ở nước ngoài liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, đấy là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Các tập đoàn đi trước chúng ta, họ giữ doanh số hàng chục tỷ USD về các ngành truyền thống nên đội ngũ của họ hầu hết tập trung vẫn là công nghệ thông tin.
"Trong khi đó, Việt Nam dễ dàng chuyển sang lĩnh vực chưa to, chưa nhiều chục tỷ USD, nhưng tăng trưởng rất nhanh, đó là chuyển đổi số. Điều này tạo điều kiện để chúng ta đạt doanh số 11 tỷ USD ngày hôm nay" - ông Bình nhấn mạnh.
Thiếu tướng Tào Đức Thắng, Chủ tịch, Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel cho hay, ngay sau khi thành công trong tiên phong phổ cập dịch vụ viễn thông di động tại Việt Nam và bắt đầu vươn ra đầu tư thị trường quốc tế, những năm đầu 2010, Viettel đã xây dựng chiến lược làm chủ việc nghiên cứu thiết kế, sản xuất thiết bị viễn thông, công nghệ thông tin, vừa để triển khai hạ tầng mạng lưới vừa để xuất khẩu sang thị trường chúng tôi đầu tư.
Đây là một bước đột phá quan trọng của tập đoàn nhằm mục đích cung cấp trang thiết bị hạ tầng mạng lưới tin cậy để đảm bảo an toàn thông tin, an toàn dữ liệu, bảo mật hệ thống, một trong những yếu tố sống còn của chuyển đổi số.
Hai là đảm bảo tiến độ cung cấp hàng hóa, triển khai hạ tầng mạng lưới, và thời gian cung cấp dịch vụ cho khách hàng, giảm sự phụ thuộc vào nhà cung cấp bên ngoài.
Ba là làm chủ hệ thống, thiết bị, chủ động ứng cứu thông tin trong trường hợp sự cố xảy ra và tiến tới thương mại hóa, xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao, nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu.
Doanh thu từ thị trường nước ngoài hơn 11 tỷ USD
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2024, doanh thu từ thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đã đạt 11,5 tỷ USD. Quan trọng hơn, nó đang tăng với tốc độ trên 30% mỗi năm.
![]() |
Doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam - Ảnh: Quỳnh Nga |
Việt Nam đặt mục tiêu, đến năm 2035 doanh thu từ thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam sẽ tiến tới con số 100 tỷ USD và vượt xuất khẩu nông nghiệp.
Bên cạnh đó, 5 năm qua, giá trị Việt Nam trong công nghiệp công nghệ số đã tăng từ 20% lên 32%. Năm 2024, giá trị Việt Nam trong 158 tỷ USD của ngành công nghiệp công nghệ số là 32%. Chúng ta đặt mục tiêu giá trị Việt Nam sẽ đạt trên 50% vào năm 2030.
Theo các chuyên gia, để vươn ra thế giới, các doanh nghiệp công nghệ số cần có tư duy đầu tư vào cốt lõi - sản phẩm, nhằm tạo ra sản phẩm khác biệt so với “đối thủ” hoặc thị trường còn thiếu. Đồng thời, sản phẩm phải có chuẩn chất lượng cao nhất để thích ứng được với các tiêu chuẩn quốc tế, yêu cầu từ nhiều thị trường khác nhau, kể cả thị trường khó tính nhất.
Một trong những mũi nhọn không thể thiếu chính là đổi mới sáng tạo, đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển (R&D) để phát triển sản phẩm đột phá, tạo lợi thế cạnh tranh. Cùng với đó, doanh nghiệp cần xây dựng một thương hiệu vững chắc, nâng cao nhận diện thương hiệu trên trường quốc tế là yếu tố then chốt để thu hút khách hàng và đối tác.
Sức mạnh nội tại của các doanh nghiệp cũng cần được tôi luyện bằng việc phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, kỹ năng chuyên môn, kỹ năng mềm, ngoại ngữ và tư duy toàn cầu.
Trong trào lưu cuộc cách mạng trí tuệ nhân tạo (AI) đang bùng nổ, doanh nghiệp công nghệ Việt Nam càng có nhiều cơ hội hơn vươn ra thế giới. Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước cần đóng vai trò đặc biệt quan trọng nhằm hướng dẫn, giới thiệu và xúc tiến các cơ hội giao lưu thương mại, giúp lan tỏa và đưa các sản phẩm công nghệ Việt Nam vươn ra quốc tế, khuyến khích và đẩy mạnh các quỹ đầu tư chất lượng cao từ nước ngoài hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ số trong nước.
Điều này không chỉ nâng cao uy tín cho các doanh nghiệp Việt Nam khi được cơ quan Nhà nước đứng ra đảm bảo, kết nối, mà còn đẩy nhanh tốc độ và mở rộng cơ hội thu hút đầu tư cho các doanh nghiệp có sản phẩm số tiên phong toàn cầu.
Thực tế, trong 3 năm qua, Bộ Thông tin và Truyền thông đã triển khai các chương trình hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam vươn ra thế giới thông qua các hội nghị, diễn đàn, triển lãm quốc tế trong và ngoài nước, thiết lập gian hàng tại các nước và kết nối doanh nghiệp với đối tác quốc tế. Các chương trình này đã tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam mở rộng thị trường và tìm kiếm cơ hội đầu tư kinh doanh ở nước ngoài.
Đặc biệt, nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp công nghệ số trở thành ngành kinh tế đóng góp lớn vào kinh tế đất nước; đưa Việt Nam trở thành môi trường thuận lợi nhất để nuôi dưỡng và phát triển doanh nghiệp công nghệ số, Chính phủ đã trình Quốc hội dự án Luật Công nghiệp công nghệ số.
Dự thảo Luật đã thể hiện rõ các nội dung cần thiết để phát triển toàn diện ngành công nghiệp công nghệ số như: Nghiên cứu và phát triển công nghệ số; phát triển hạ tầng công nghiệp công nghệ số, thúc đẩy hệ sinh thái công nghệ số toàn diện; phát triển doanh nghiệp công nghệ số; sản phẩm, dịch vụ công nghệ số; tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, và phát triển nguồn nhân lực công nghệ số.
Đại diện Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng cơ hội đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam rất lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Bên cạnh việc ký các thỏa thuận về thương mại đầu tư, những văn bản hiện nay đã có sự điều chỉnh, hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích của doanh nghiệp của Việt Nam khi đầu tư kinh doanh sang nước ngoài.
Để các "chiến binh" công nghệ số Việt Nam thực sự đi ra biển lớn trước hết cần trang bị chiến lược toàn diện, sắc bén và đa chiều thông qua việc nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng, nắm bắt xu hướng, nhu cầu và đối thủ cạnh tranh. Tiếp theo, các doanh nghiệp cần xác định lĩnh vực trọng điểm bằng cách tập trung vào thị trường ngách phù hợp với thế mạnh của doanh nghiệp. |